Tựa sách: Vang bóng một thời
Tác giả: Nguyễn Tuân
Nhà xuất bản Văn học
Giá bìa: 20 000 đ
Nguyễn Tuân viết "Vang bóng một thời" vào 1940 -
trước CMT8. Thực ra tập truyện ngắn này tập hợp những bài viết trong chuyên mục
" Vang và bóng một thời" được ông đăng trên 1 tờ báo xưa. Sau được nhà xuất bản Tân Dân in ấn. Đây được xem
là tác phẩm đạt gần đến sự toàn thiện mỹ, đưa Nguyễn Tuân thành ngôi sao sáng của
văn đàn
Tác phẩm gồm 12 truyện ngắn có thể chia làm 2 thể loại. Loại
thứ nhất gồm các truyện: những chiếc ấm đất, hương cuội, chén trà trong sương sớm,
thả thơ, đánh thơ, một cảnh thu muộn... mang phong cách nhẹ nhàng, tinh tế,
miêu tả cái thú chơi thanh cao tao nhã của nhà nho trí thức xưa trong buổi giao
thời Hán học - Tây học. Bên cạnh đó là
các truyện: chém treo ngành, chữ người tử tù, đánh bút chì, báo oán,... mang
cái không khí rờn rợn, tăm tăm tối tối, khiến người đọc hồi hộp dõi theo từng
nhân vật, để rồi trân trọng và thán phục những con người ở tầng lớp dưới, những
kẻ sa cơ mà có cái lòng thanh cao hay tài năng hiếm có.
1.
Chém treo ngành:
Truyện kể về một người đao phủ già tên Bát Lê nổi tiếng với cái tài “chém
treo ngành”. Tức là chém đứt đầu người, chỉ chừa lại cọng da mỏng dính. Nghe
hơi rợn rợn. Cái lối chém của ông lão đao phủ này, cùng với cái lối “đánh bút
chì” của tay Lý Văn trong truyện “Ném bút chì”(cũng in trong tập sách này) quả là
độc nhất vô nhị. Tay Lý Văn dùng cái mai( dáng giống cái thuổng đào đất) ném
gãy đứt chân con gà đang chạy, mà cũng 0 hẳn là đứt lìa chân nhé, đứt ngang ngọt
lịm, vẫn dính cọng da mỏng mới tài. Ấy quả là người tài thật. Nếu như theo
Malcom Gladwell phải luyện 10 000 giờ để thành chuyên gia thông tường tinh xảo
một kỹ năng thì 2 con người này đã phải xuống
tay biết bao nhiêu lần, kể ghê gớm thật đó. Mô tả Bát Lê, người đọc không có
chút ghê sợ hay oán ghét con người hay cái công việc “bạo lực” của ông, mà ngược
lại cảm nhận được cái khí khái hơn người toát ra từ lão đao phủ. Nhất là mấy
câu thơ ông đọc lúc múa “thanh quất” :
Sống không thù nhau
Chết không oán nhau
Thừa chịu lệnh cả
Dám nghĩ thế nào
Ngươi ngồi cho vững
Cho ngọt nhát đao
Hỡi hồn!
Hỡi quỷ không đầu.
Kẻ tử tội, có nghe được mấy câu thơ này, cũng cam lòng mà ra đi. Ở cảnh
cuối, lúc quan công sứ người Pháp ra về, bụi lốc cuốn lên, hất văng mũ ngài
công sứ xuống đất. Chi tiết này đã được chính quyền lúc đó lược bỏ đi trong các
lần xuất bản sau này. Vì thế để đọc được phiên bản đầy đủ của tác phẩm, người đọc
nhớ mua sách của Nhã Nam mới phát hành nhé. Đã mua bản quyền rồi.
2.
Những chiếc ấm đất:
Cụ Sáu là người mê trà Tàu. Cái thú đó của cụ chẳng những công phu mà còn
tốn kém. Nước pha trà phải lấy từ giếng nước ở chùa Đồi Mai mới chịu. Đến nỗi
chính ông đã nói:”Tôi sở dĩ đi đâu xa được là vì không đem theo được ước giếng
này đi để pha trà...” Chỉ câu văn này của Nguyễn Tuân đã thấy được độ chịu chơi
của cụ Sáu:
Nghề chơi cũng lắm công phu
(Truyện
Kiều)
Muốn pha trà phải có ấm trà. Mô tả cái sự cầu kì, kĩ tính của ông cụ Sáu
này, Nguyễn Tuân đưa vào nhân vật “ông Khách”. Ông Khách đàm đạo với cụ Sáu câu
chuyện về một thằng ăn mày có cái ấm trà
quý , cũng mê trà Tàu, lại có khả năng chỉ uống 1 chén trà cũng biết được bình
trà nào đó có lẫn mùi tro trấu bên trong. Xuyên suốt câu chuyện, 3 nhân vật cứ ẩn
hiện hoà làm một. Nói chuyện cụ Sáu mà hình như đó là ông Khách, có khi ông
Khách lại chính là thằng ăn mày đó cũng hay, hay là lời nhắc khéo của Khách, cụ
Sáu mà mê trà Tàu quá thì có khi cũng phải đi ăn mày. Cái hay nữa là dù ở trong
hoàn cảnh nào, môi trường nào cốt cách con người ta vẫn không thay đổi. Cái
tính khoan thai chỉn chu khi pha một ấm trà, chuyên tâm để được một chén ngon
thì dù có từ ông già tiêu diêu tự tại sành sỏi nghề chơi nếu có xuống làm anh
ăn mày, phải bán đi cái ấm quý, cũng không thay đổi. Đó là cái nền, cái nếp đã
ngấm vào con người ta, như một chén trà, uống vào rồi mà vị trà, hương trà còn
kéo dài mãi. Chi tiết cuối truyện ông cụ Sáu phải bán đi ấm quý để trang trải
lúc sa cơ. Mình thấy thú vị ở chỗ, cụ không bán nguyên lô, mà bán ấm trước, bán
nắp ấm sau. Tác giả để nhân vật giải thích là bán 2 lần như thế thì được giá,
tiền lời nhiều hơn. Mình lại nghĩ là cụ Sáu thực là tiếc lắm lắm, bán 2 lần là
để kéo dài thời gian, để có cơ hội mua lại những chiếc ấm quý đó trở lại. Đợi
khi thế thời thay đổi, cuộc sống khá hơn, cụ lại giữ được những báu vật của
mình – những chiếc ấm đất.
3.
“Thả thơ” và “Đánh thơ”
2 truyện này viết về một phong tục ở xứ Huế, thời Nguyễn. Thả thơ hay
đánh thơ nói nôm na trần tục là đánh bạc bằng văn chương, một kiểu rất quý tộc.
Còn đối với học sinh, sinh viên sẽ thấy giống trắc nghiệm, chọn câu đúng nhất.
Nếu ai từng chơi lô tô, bầu cua tôm cá, ném phi tiêu đặt cửa ăn tiền thì thấy
luật lệ của thả thơ cũng dễ hiểu. Người cầm cái, phải là người am hiểu thi phú,
sẽ trải ra trên giấy mấy câu thơ, trong đó có câu khuyết mất một chữ, chữ này
được thay thế bằng cái vòng, gọi là vòng thơ. Tiếp đó sẽ có mấy cái ô trống nơi
để chữ/ từ thay thế cho vòng thơ. Bạn muốn đánh vào chữ nào thì đặt tiền vào chữ
đó. Ví dụ, thả câu:
Quân hướng Tiêu Tương ngã ...Tần
A. cố B.
tại C.vọng D.phản E.
Hướng
Bạn đặt tiền cửa nào A, B, C, D hay E?
Cũng là cờ bạc, cũng có máu ăn thua, vậy mà có cái tao nhã trong đó. Ấy
là nhờ thi phú. Người cầm cái phải là người làu làu thơ phú, nhất là thơ cổ,
cũ, độc. Nói như bây giờ là không độc không ăn tiền được. Người chơi, ăn thua đấy,
lúc đánh được một chữ trúng hay bất ngờ trước cái đáp án dị kì đều khảng khái
mà ngâm lên câu thơ vừa đánh mà ra chiều tâm đắc. Có khi cả sân đình nơi tổ chức
thả thơ âm vang tiếng ngân, như một dàn ca. Thắng vui, thua cũng vui... ít.
Đánh bạc nhưng không có cái ồn ào chen chúc, cái bực tức cãi cọ, so đo tính
toán nhiều. Loại hình này hợp nhất là mấy vị gió trăng đề huề, học đòi thi phú
cho ra dáng nho sĩ. Chứ nông dân, lính lác, ê a hoài như thế mất cả vui...
hehe. Giả sử có một anh nông dân và một anh nhà thơ tranh luận với nhau về 2 hình
thức đánh bạc: thả thơ và đánh bạc thông thường. Anh nào cũng cho là mình đúng.
Anh nhà thơ sẽ chê anh nông dân là dung tục, xô bồ, không biết thưởng thức nghệ
thuật. Anh nông dân sẽ phản bác rằng tụi nhà thơ tụi bây chỉ giả vờ sang chảnh,
tham tiền cũng tham như nhau mà bày đặt thi phú. Có lẽ 2 người bài bác nhau vì
không am hiểu lẫn nhau. Có hiểu mới yêu, mới biết thưởng thức. Riêng tôi, tôi
chọn thả thơ, vì nó nhẹ nhàng hơn, chậm rãi hơn, cho tôi trí tưởng tượng và biết
thưởng thức. Chả bên nào đúng cả, quan trọng là bạn chọn bên nào, và được gì, vậy
thôi.
Ngày nay ở Huế gần đây người ta đã cho khôi phục lại
hình thức văn hoá này. Tuy thế vẫn ít người biết đến. May mắn là tập vang bóng một thời này miêu tả
chi tiết và sống động về phong tục này. Mình ít thấy các tác phẩm nào khác như
thế.
4.
Ngôi mả cũ:
Ý kiến cá nhân: đây là câu chuyện có nhiều cái tình nhất trong tập sách
này. Cái tình giữa cụ Hồ - tướng quân Cờ Đen với cụ Án, thân sinh của cô Tú và
cậu Chiêu( 2 nhân vật chính của truyện), cái tình của người chị hi sinh cuộc đời
con gái ở vậy nuôi em trai ăn học. Tình cảm 2 chị ăn gắn bó vượt qua những khi hàn
vi rau cháo qua ngày. Cái tình thương yêu của cụ Hồ với 2 chị em, ông có cái bụng
yêu mến cái đức tính chịu thương chịu khó của cô Tú, cái thiên lương còn giữ được
của cậu Chiêu lúc nhà khó khăn. Ông không chê 2 người trẻ nghèo mà quý cái ý
chí vươn lên của họ. Ấy là còn điểm xuyến
tình cảm của người phu kiệu vẫn nhớ ân tình cụ Án ngày xưa. Nói thế để thấy là
con người ta khi xưa giàu tình cảm, xử sự thật là phải phép, chuẩn mực. Nguyễn
Tuân kể chuyện mà không phải truyện. Một cái kết không rõ ràng, để ngỏ đó. Phải
rồi vì nó đâu có quan trọng. Quan trọng là cái tình, cái khéo trong hành động của
các nhân vật. Chỉ có vậy mà truyện vẫn hấp dẫn, dư âm còn kéo dài mãi.
5.
Hương cuội
Hương cuội làm mình thích thú phát hiện ra khi xưa người ta ăn kẹo mạch
nha phủ lên lớp đá cuội, ướp hương hoa lan nữa chứ. Trước giờ vẫn nghĩ chỉ Quảng
Ngãi quê mình có kẹo mạch nha, đọc “Hương cuội” mình hiểu rằng đây là món ăn
lâu đời, và đã có ở miền quê Bắc Bộ lâu lắm rồi. Ếch ngồi đáy giếng thật.
Hương cuội miêu tả không khí gần tết của một gia đình. Cụ Kép cùng con
cháu quây quần rửa lá dong, nấu bánh chưng, chăm chút cho vườn Lan để nở đúng dịp
tết, nấu kẹo mạch nha, uống rượu ngâm thơ, thưởng thức cái không khí mà chúa
Xuân mang về. Thực là nhẹ nhàng và êm đềm quá đỗi. Mình thích nhất là đoạn văn
nói suy nghĩ của cụ về chơi hoa:
”... có một vườn hoa là một việc dễ dàng,
nhưng đủ thời gian mà chăm sóc đến hoa mới là việc khó...Người chơi hoa nhiều
khi lấy cái chí thành chí tình ra mà đối đãi với giống hoa cỏ không biết bao giờ
biết lên tiếng nói. Như thế mới phải đạo, đạo của người tài tử. Chứ còn cứ gây
được lên một khoảnh vườn, khuân hoa cỏ ở các nơi về mà trồng, phó mặc chugs ở
giữa trời, đày chúng ra mưa nắng với thờ ơ, chúng trổ bông không biết đến,
chúng tàn lá cũng không hay, thì chơi hoa làm gì cho thêm tội với Chúa Xuân”
6.
Chén trà trong sương sớm:
Lại
thêm một truyện về trà Tàu. Hẳn là khi xưa Nguyễn Tuân và cha ông cũng mê cái
món này lắm lắm. “Chén trà trong sương sớm” miêu tả một phương pháp thể dục, 1
cách dưỡng sinh xưa: uống trà và ngâm thơ sáng sớm.Theo ý cụ Ấm(nhân vật chính
của truyện) “người xưa uống trà là để giữ mình cho lành mạnh. Thường hay vấn
mình để sửa mình vào những giờ uống trà Tàu...” còn “ngâm thơ lúc yên lặng, lúc
mới tỉnh giấc là một cách vận động thần khí kì diệu nhất của môt người sống bằng
cuộc đời tâm tưởng bên trong. Mỗi buổi sớm ngâm như thế là đủ tiết hết ra ngoài
những cái nặng nề trong thân thể và để đón lấy khí lành đầu tiên của trời đất...”.
Mình nghe xong thích quá, định sáng nào cũng pha một bình trà ô long, nhưng trà
này mắc quá xá, phải dăm ba hôm mới pha một lần. Ở phương Đông, nước nào cũng
thấy có uống trà: từ Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên Hàn Quốc đến Ấn Độ, Pakistan,
Srilanka, Việt Nam, Indonesia.... đều có cả. Nhiều nơi đã nâng lên thành trà đạo.
Trà quả thực là thức uống của thần thái và trí tuệ. Mình nghĩ ai ai cũng nên uống
trà cả.
.................
Đây
là những truyện mình thấy hay và gợi nhiều suy nghĩ. Những truyện khác như: “Chữ
người tử tù” đã được dạy trong chương trình phổ thông, Ném bút chì phong cách
giống “Chém treo ngành”, “Báo oán” nghe hơi dị đoan, “Trên đỉnh non Tản” thì
phiêu diêu huyền ảo, hơi xa cách thực tế. Trong 12 truyện, mình cho là “Chém
treo ngành” là hay nhất. Còn mô tả nên thơ nhất là “Hương cuội”. Nếu được thì mọi
người nên mua sách của Nhã Nam, đã bổ sung những đoạn bị cắt bỏ từ thời Pháp.
Vang bóng một thời là hồi ức đẹp về thời dĩ vãng xa xưa nay không còn nữa. Đi
cùng những con ingười tài hoa, những cầu kì trong thú chơi đó là cốt cách, nền
nếp của thế hệ những con người. Hãy đừng để những điều đó lãng quên và biến mất
dần, đừng để thế hệ ta nay bị hụt hẫng, bơ vơ với đứt gãy văn hoá, không biết
đi đâu, về đâu.
No comments:
Post a Comment